TÍNH NHẤT QUÁN CỦA TỨ THƠ
TÍNH NHẤT QUÁN CỦA TỨ THƠ
Bài Thơ Vui
HAI CHÀNG TRAI
Trên đường có nhị chàng trai
Đầu râu tóc bạc cỡi hai ngựa hồng
Ngựa thời trắng toát như bông
Giữa đường cát trắng bụi hồng tung bay
Những mâu thuẫn về ý trong đoạn thơ:
a/ Chàng trai mà “đầu râu tóc bạc”
b/ Ngựa hồng mà “trắng toát như bông”
c/ Đường cát trắng mà “bụi hồng tung bay”
Trên đây là bài thơ vui nói lên một lỗi sơ đẳng của thơ là ngôn
từ, ý tứ không nhất quán, có mâu thuẫn nội tại, “câu sau chửi cha câu trước”.
Hai Bản Nhạc Mùa Giáng Sinh
1/
Mỗi năm cứ đến giữa tháng 12 là các đài truyền thanh, truyền hình Việt ngữ, các
nhà thờ, các Mall, các trung tâm sinh hoạt của người Việt ở Texas lại rầm rộ
phát nhạc Giáng Sinh. Tôi chú ý đến bản nhạc Đi Tìm Chúa Tôi vì có 2 câu đầu,
theo tôi, tác giả viết hơi vội, hơi ẩu hoặc vô ý.
Này một hài nhi vừa sinh ra đời
Hãy đến mau kính dâng lạy người
Tại sao thấy hài nhi sinh ra đời lại phải đến dâng lạy? Như thế thì (chỉ
riêng ở Houston) một ngày phải lạy biết bao nhiêu hài nhi?
Nếu hai câu ấy nằm ở giữa bài thì không nói làm gì. Thính giả ít
nhất cũng đã được dẫn dắt vào khung cảnh ngày lễ và hiểu được là hài nhi được
nói đến chính là Chúa Hài Đồng. Đàng này chưa biết ất giáp gì đã bị hối thúc đi
lạy hài nhi.
Những người không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo sẽ thấy ngỡ
ngàng, gai gai khó chịu. Mà ngay đối với con dân Chúa cũng thấy chướng; một bài
hát về đạo mà vô ý đến độ gây phản cảm.
2/ Mới đây, khi tra cứu để viết Những Tiêu Chí Để Thẩm Định Giá
Trị Một Bài Thơ tôi tình cờ nghe bản nhạc Bài Thánh Ca Buồn của Nguyễn Vũ, có
đoạn:
Lời nguyện mình Chúa có nghe không
Sao bây giờ mình hoài xa vắng?
Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian
Bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu
Trong đó 2 câu sau – dựa trên bề mặt của con chữ – có nghĩa là
“Mỗi năm Chúa xuống dương gian một đêm và bao nhiêu đêm Chúa Xuống dương gian
là bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu.”
Như vậy thì bậy quá!. Chúa chỉ Giáng Sinh một lần. Những năm sau
đó là con người tổ chức kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh chứ đâu phải năm nào Chúa
cũng xuống dương gian đâu!
Mà giả dụ năm nào Chúa cũng Giáng Sinh thì cũng chẳng thể “bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu” được. Chúa Giáng Sinh (lần đầu!) từ mấy ngàn năm
trước, anh với người yêu giỏi lắm chỉ được mấy chục cái xuân xanh, thì làm sao “bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu?” Rõ ràng nội dung của đoạn ca từ “câu nọ cãi cọ với câu
kia”, chẳng hợp lý tý nào.
Một Câu Ca Dao
Trai tơ mà lấy nạ dòng
Như nước mắm nhĩ chấm lòng lợn thiu
Có người sửa lại:
Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu
và giải thích rằng “Nước mắm thối chấm lòng lợn thiu ăn chán lắm,
giống như trai tơ mà lấy nạ dòng vậy.”
Theo tôi, nói như thế là không đúng. Trai tơ là “đồ xịn” mà chơi
với nạ dòng - là “đồ dởm” - thì uổng, cũng giống như nước mắm nhĩ là “đồ xịn”
mà đem chấm lòng lợn thiu - là “đồ dởm” - thì phí quá.
Do đó, phải giữ nguyên “nước mắm nhĩ” mới hợp với logic của ý câu
ca dao.
Chữ “Vui” Làm Buồn Bài Thơ
NIỀM TIN
Lại một NOEL nữa
Mấy mùa Giáng Sinh rồi
Anh ở đồn biên giới
Thuơng về một khung trời
Chắc Ðà lạt vui lắm
Mimosa nở vàng
Anh đào khoe sắc thắm
Huơng ngào ngạt không gian
Mấy mùa Giáng Sinh truớc
Chỗ hẹn anh chờ hoài
Lần này không về đuợc
Hồi hộp đợi tin ai
Em biết chăng đời lính
Nắng sớm với sương chiều
Gió rừng rồi mưa núi
Ðã làm anh vui nhiều
Radio mở sẵn
Ðón thanh lễ truyền thanh
Xin CHÚA ban ơn xuống
Cho em và cho anh
Cùng cầu cho thế giới
Cho nhân loại hoà bình
Cho đôi ta gặp lại
Trong một mùa Giáng Sinh
nhấttuấn (1960) Anh Linh phổ nhạc
http://huongduongtxd.com/nhattuan6.html
https://www.youtube.com/watch?v=fXgdPlUdKJQ
Tôi đến với Niềm Tin đầu tiên qua giai điệu nhạc của Anh Linh
trước khi biết bài thơ gốc của Nhất Tuấn. Nghe bài nhạc đến đoạn “đã làm
anh vui nhiều” tự nhiên tôi thấy chối tai, cảm xúc trong tâm
hồn đang trôi theo tiếng hát bỗng khựng lại. Lòng tự hỏi “Trong khung cảnh đó
tại sao lại “vui” nhỉ? Mà lại “vui nhiều” mới lạ chứ!
Đã từng là anh lính chiến, đóng quân ở rừng sâu, núi cao, tôi đã
biết thế nào là
Nắng sớm với sương chiều
Gió rừng và mưa núi
theo đúng nghĩa đen của từng chữ.
Tôi quen với khung cảnh ấy, sống trong hoàn cảnh ấy không phải vài
ngày, vài tuần mà tháng này qua tháng khác. Những lúc ấy ngồi trong lều nhìn
cảnh núi rừng - từ sĩ quan đến lính - mắt thằng nào cũng như đang lạc vào một
cõi xa xăm, mặt thằng nào cũng dài thuỗn ra, buồn rười rượi.
Dĩ nhiên đời lính ở rừng sâu núi thẳm cũng có những lúc vui -
những niềm vui nho nhỏ do người lính tự tạo ra - để quên nỗi nhớ thương quay
quắt và để … sống. Nhưng chỉ cần một cái gì đó rất nhỏ nhặt gợi lên kỷ niệm với
người thân thì từ sâu trong tâm hồn của họ nỗi buồn chia xa đang đầy ắp sẽ trào
ra như thác đổ.
Câu “Đã làm anh vui nhiều” khiến Niềm Tin đang là tâm tình
của người lính xa nhà bỗng trở thành một bài thơ, bài hát “phải đạo”
(politically correct). Lời thơ, tiếng nhạc đang là những cảm xúc chân thật của
con người bất chợt biến thành những lời đầu môi chót lưỡi, dối người và tự dối
lòng mình.
Hơn nữa, xét về kỹ thuật thơ thì câu “Đã làm anh vui nhiều” là câu
thơ “tréo cẳng ngỗng” lội ngược chiều với dòng chảy lững lờ buồn bã của tứ thơ.
Đúng là chữ “vui” đã làm buồn bài thơ.
Chăn Trâu Đốt Lửa
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
(Chăn Trâu Đốt Lửa, Đồng Đức Bốn)
Đạo quân chính trong trận Chăn Trâu Đốt Lửa - hồn cốt của bài thơ
(tứ thơ) - nằm trong 2 câu cuối:
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
Hai câu đầu là phần dẫn nhập, cái cớ để tứ thơ xuất hiện, làm
nhiệm vụ yểm trợ:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều.
Trong bài Lục Bát Và Chăn Trâu Đốt Lửa ông Nguyễn Lâm Cúc đã viết:
Khung cảnh trong bài thơ là cánh đồng miền Bắc, nơi mà dù vụ gặt
vừa mới xong rạ rơm cũng không còn lại bao nhiêu, vì suốt cả một vùng đồng bằng
dọc theo châu thổ sông Hồng, người nông dân quí rạ không khác gì sản phẩm khác.
Họ tận thu rơm rạ để làm thức ăn cho trâu, bò; để đun nấu, để làm vách đất nữa.
Vì vậy, cánh đồng sau vụ gặt mùa Đông chỉ còn rất nhiều gió và cái lạnh thấu
xương.
Trong bài “Chăn Trâu Đốt Lửa”: Sâu Sắc Một Triết Lý Nhân Sinh nhà
phê bình Đức Thọ cũng đề cập đến sự hiếm hoi của rơm rạ sau vụ gặt Đông:
Câu thơ thứ hai nhà thơ khẳng định “Rạ rơm thì ít, gió đông thì
nhiều”. Đúng vậy, trong mùa hanh heo mà đã gió đông thì khi thổi cháy bao nhiêu
rơm rạ cho vừa.
http://lucbat.com/news.php?id=3470
Trong đầu tôi tức khắc hiện ra câu hỏi: Trong hoàn cảnh đó làm sao
có đủ than lửa để củ khoai cháy thành tro được?
Tôi có điện thoại hỏi một ông chú họ xa ở ngoại thành Hà Nội thì
được cho biết:
Nếu chịu khó kiếm cành khô, củi mục ở nơi khác gom lại thì với
chút ít rơm rạ còn sót ở cánh đồng cũng có thể tạo được “bếp lửa” để nướng
khoai nhưng phải chăm chút, che chắn cẩn thận, chứ như thi sĩ của chúng ta “Mải
mê đuổi một con diều” thì chỉ chốc lát là rơm rạ đã bay tung tóe, lửa tắt, củ
khoai chưa chắc đã chín chứ làm gì có cái cảnh “Củ khoai nướng để cả chiều
thành tro.”
Mà dù, cứ cho là với cái tài gầy bếp đặc biệt của trẻ chăn trâu,
củ khoai nướng đã thực sự thành tro thì theo tôi, câu thơ “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” cũng đã “đi ngược đường” với tứ
thơ.
Trong chiến tranh đôi khi có những người lính làm nội gián cho
địch để cản trở, phá hoại việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp Chăn
Trâu Đốt Lửa thì “Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” chính là câu thơ
nội gián. Không những nó không giúp làm tăng độ khả tín, sức thuyết phục của tứ
thơ mà ngược lại, đã trở thành một chướng ngại vật ngăn cản hành trình qua đó
độc giả tiếp cận tứ thơ để rồi đi đến chỗ đồng cảm với tác giả.
Kết Luận
Một điểm “xung đột”, không thuận tình, hợp lý giữa những ý nhỏ của
tứ thơ sẽ tạo nên “câu thơ nội gián”. Tứ thơ sẽ mất tính nhất quán.
Tạo ra và dung dưỡng một câu thơ nội gián, theo tôi, là một lỗi
nặng của thi sĩ. Tùy mức độ “xung đột nội bộ” trong tứ thơ, bài thơ có thể bị
đánh giá là hỏng, giảm giá trị nghệ thuật hoặc chí ít cũng
là không được hay đẹp trọn vẹn.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
Trở Về Trang Chính
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2023/11/vai-net-ve-trang-blog-ly-thuyet-tho.html