BÀN VỀ CHỮ “XẠO” TRONG THƠ
BÀN VỀ CHỮ “XẠO” TRONG THƠ
Thi Sĩ Có Xạo Không?
Trong một số bài luận bàn về thơ tôi thường viết:
“Người đời, có cả thi sĩ, thường gian dối”.
Vì thế trong thơ thường ẩn hiện – khi tỏ, khi
mờ - một chữ Xạo.
Có trường hợp thi sĩ xạo, biết là mình xạo và
độc giả cũng nhận ra là Ngài xạo (a). Có trường hợp thi sĩ xạo, biết là mình xạo
nhưng che giấu khéo léo nên độc giả không nhận ra là Ngài xạo (b).
Và cũng có trường hợp thi sĩ xạo nhưng không biết là mình xạo, còn độc giả cũng
không thấy bằng chứng nào để có thể cho rằng Ngài xạo (c)
Vài Kiểu Xạo Điển Hình Trong Thơ
1/ Nổ: Xạo để có
danh hão – “Ta là số 1”. “Nổ” khác “khoe”. “Khoe”
là phô trương cái hay, cái đẹp mình có. “Nổ” là
phịa ra hoặc “có ít xít ra nhiều”.
2/ Xạo để kiếm lợi.
3/ Xạo vì lập trường
quan điểm, đứng ở một phía của một vấn đề hai mặt.
“Ôi đẹp quá phe mình!
Còn phe bên kia
phải chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.”
(1)
4/ Xạo vì sợ, vì teo
chim – sinh ra biến chứng “nịnh”.
5/ Xạo vì xê dịch kịch
bản (2)
6/ Xạo vì đánh mất
chính mình: Kiểu xạo này phức tạp (trường hợp c) , cần phải diễn giải dài dòng.
Mời độc giả đọc ở phần dưới đây.
Lan Man Về Cái Tôi
Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống
hàng ngày của cộng đồng mỗi con người đương đại phải (ép mình) tuân thủ rất nhiều
nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên
tắc càng nhiều.
Sau khi vào đời một thời gian, trong mỗi thân
xác con người có 2 cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi
quyền làm chủ thân xác đó: “Cái tôi đích thực”
và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái
tôi văn hóa”. “Cái tôi văn hóa” là “cái tôi” chứa bóng dáng chữ Xạo.
Tuổi đời càng cao “cái tôi văn hóa” càng mạnh,
càng rõ nét và “cái tôi đích thực” càng yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc nào đó (sớm
muộn tùy hoàn cảnh mỗi người) “cái tôi văn hóa” sẽ “đè bẹp” “cái tôi đích thực”
để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.
Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre (3) thì con
người là một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình, tức là đánh mất “cái tôi đích
thực”). Còn nói như Albert Camus (3) thì “con người đích thực” đã bất lực, để một
“kẻ xa lạ” (“cái tôi văn hóa”) đến chiếm hữu thân xác mình.
Lý Trí: Nguyên Nhân Của Chữ “Xạo” Trong Thơ
Thi sĩ làm thơ trong lúc tỉnh táo quá thì những
gì viết ra sẽ được lý trí cân nhắc, suy hơn, tính thiệt kỹ càng. Đó sẽ là những
vần thơ phải đạo được “đạo diễn” bởi “cỗ máy biết suy nghĩ” của “cái
tôi văn hóa”. Lời thơ sẽ ẩn hiện một chữ Xạo đậm nét. Nếu thi sĩ có kỹ thuật
nhuần nhuyễn, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, hiệu quả - thì thơ vẫn có cảm xúc, vẫn
có thể “hay” (về “nét đẹp văn chương”) nhưng thiếu vắng sự chân thật của “cái tôi
đích thực”.
Hai
Phương Cách Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ Của SIÊU THỰC Và TƯỢNG TRƯNG
SIÊU THỰC Đưa “Mộng” Vào Thơ.
Mộng (Mơ), đối với Freud, là
thực hiện những khát vọng bản năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt (của lý trí) không làm việc, do đó, chỉ trong mơ người ta mới thể hiện
được những ham muốn bị dồn ép, cấm kỵ lúc tỉnh.
(Từ Lãng Mạn Đến Siêu
Thực, Thụy Khuê)
http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html
Những điểm không thuận lợi khi đưa Mơ vào Thơ:
1/ Hình ảnh, cảnh tượng, câu chuyện trong Mơ
thường “đầu Ngô mình Sở”.
2/ Lúc tỉnh dậy cố ghi lại giấc mơ thì
chỗ nhớ, chỗ quên, tính "đầu Ngô mình Sở" càng rõ nét hơn.
4/ Tập hợp những hình ảnh, cảnh
tượng xảy ra trong mơ đưa vào bài thơ (lúc đã tỉnh) không ít thì nhiều, lý trí
cũng sẽ xen vào.
3/ Tính "đầu Ngô mình Sở" của
nội dung khiến độc giả “khó bắt” tứ thơ, chức năng truyền thông của bài thơ
không thành công.
Như vậy, “Nàng Siêu Thực” đúng ở chỗ
tránh được “Chàng Lý Trí” trong mơ nhưng khi “đưa mơ vào thơ” thì lại gặp “Người
Tình Cũ”.
TƯỢNG TRƯNG Đặt Cạnh Nhau Những Nhóm Chữ
Và Hình Tượng Không Liên Quan
Mục đích là loại bỏ tính lô-gic, buộc lý
trí phải “đi chỗ khác chơi”.
Trong 3 đoạn của bài thơ được trích làm thí dụ
dưới đây tôi chỉ tô màu “hoa hòe hoa sói” một đoạn (đoạn 2) để làm rõ mục đích
của “thủ pháp” này.
Thí dụ:
Buồn Xưa
Quỳnh hoa chiều
đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở
dấu xiêm y
Rượu
hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón
hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng
xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy
đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài
đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ
bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn
hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn
mây tràng giang buồn muôn đời
Môi
gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên
vàng da lộng trái du ngươi
(Nguyễn Xuân Sanh)
Những nhóm chữ không liên quan đặt cạnh nhau khiến đoạn thơ tối
mù, khó hiểu. Thiếu tính lô-gic, lý trí không “hoạt động” được phải bỏ đi. Độc
giả không thể “bắt” được tứ thơ. Chức năng truyền thông của bài thơ thất bại.
Chúng ta hãy nghe nhà phê bình nổi tiếng Đỗ Lai Thuý phát
biểu sau vài lần đọc bài thơ:
“Bài thơ đọc một lần, hai lần... Ấn tượng khó hiểu, nhưng
quyến rũ. Và hình như càng khó hiểu càng quyến rũ: cái hay và sự khó hiểu xoắn
luyện vào nhau không thể tách bóc được? Và nhà phê bình, với số phận vô duyên
của mình, cứ làm cái công việc không thể làm ấy”.
(Nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)
Với tôi, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy “cứ làm cái công việc không thể làm ấy” đúng là có số phận
vô duyên thật. Bởi
dù có đọc hàng vạn lần, nét quyến rũ có phủ kín tâm hồn, ông cũng như một
người mù, chẳng thể hiểu được bài thơ ấy. Không hiểu gì mà vẫn cứ thấy
quyến rũ thì ông quả là một học giả có biệt tài.
Như vậy, với các loại hình nghệ thuật khác tôi không dám
có ý kiến, nhưng với thơ, Chủ Nghĩa Siêu Thực (và Tượng Trưng) có luận điểm hữu
lý - và trong một chừng mực nào đó - hữu ích, nhưng phương cách thực hiện thì
không thành công.
Có Cách Nào
Loại Bỏ Lý Trí Trong Thơ Không?
Theo tôi, có.
Nếu thi sĩ chọn được thể thơ thích hợp, tứ thơ
sẽ chảy thành dòng, cảm xúc ở tầng 3 (4) sẽ lớn mạnh.
Rồi lại gặp lúc thi sĩ thật cao hứng, lên cơn điên vì
yêu, hận (giận), vui sướng, buồn bã, ghen ghét, ham muốn … cảm xúc sẽ sôi lên
phủ mờ lý trí, “cái tôi đích thực” sẽ vùng dậy đẩy “cái tôi văn hóa” vào bóng tối
để dành quyền “đạo diễn” bài thơ.
Thi phẩm viết ra trong tâm cảnh ấy sẽ chẳng
màng đến chính kiến, lập trường, truyền thống, đạo đức, lễ giáo, thước đo giá
trị của người đời … mà chỉ là những gì tuôn trào ra ngòi bút bởi “cơn điên” của
thi sĩ đang thôi thúc trong lòng. Lúc ấy kỹ thuật thơ vẫn mang dáng dấp đẳng cấp
của thi sĩ nhưng lời thơ – không còn bị chi phối
bởi “cái tôi văn hóa” - sẽ là tâm tình chân thật của
“cái tôi đích thực”.
Đây chỉ là vài nét đại cương tôi đã mày mò,
chiêm nghiệm nhiều năm phác họa ra.
Sẵn sàng đón nhận những ý khiến trái chiều (nếu
có) của độc giả.
Phạm Đức Nhì
https://lythuyetthoabc.blogspot.com/
CHÚ THÍCH:
1/
(Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, Phạm Đức
Nhì)
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/yeu-tho-nen-phai-het-long-voi-tho.html
2/
(Một Kịch Bản Thơ Xạo, Phạm Đức Nhì)
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/mot-kich-ban-tho-xao.html
3/
Đều
là đại diện của Chủ Nghĩa Hiện Sinh
Tác
phẩm tiêu biểu:
Jean
Paul Sartre: La Nausée (Buồn Nôn)
Albert
Camus: L’Étranger (Kẻ Xa Lạ)
4/
(Ba Tầng
Cảm Xúc Trong Thơ, Phạm Đức
Nhì)
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2021/11/ba-tang-cam-xuc-trong-tho.html
Trở Về Trang Chính:
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2023/11/vai-net-ve-trang-blog-ly-thuyet-tho.html